Pages

Nov 9, 2012

Một số liệu pháp giúp phái yếu thêm mạnh

Lãnh dục là hiện tượng không hứng thú với sinh hoạt tình dục của nữ giới. Nguyên nhân có nhiều. Bài viết này chỉ bàn đến chứng lãnh dục phát sinh do bệnh.

Liệu pháp thuốc uống

Tùy thể bệnh và biểu hiện lâm sàng mà dùng bài thuốc thích hợp.

Thể khí huyết thiếu hư:

Người phụ nữ lãnh dục thường cảm thấy váng đầu, bủn rủn chân tay, tim đập mạnh, loạn nhịp, hụt hơi, sau sinh hoạt tình dục cảm thấy mệt mỏi triền miên, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch huyền. Mục đích chữa trị là bổ khí huyết, có thể dùng thang Quy tì gia giảm: đảng sâm 15g, hoàng kỳ 18g, đương quy 10g, bạch truật 6g, kê huyết đằng 15g, tử hà sa 10g, tiên linh tỳ 10g, cam thảo chích 8g, xuyên khung 6g, thục địa 15g. Đổ nước vào sắc thành 300ml, ngày chia làm 3 lần uống nóng.

Thể thần khí suy nhược:

Người phụ nữ lãnh dục thường cảm thấy hoa mắt ù tai, lưng mỏi, gối run, sinh hoạt tình dục xong cảm thấy lưng mỏi đau hơn, khí hư khô, ít, lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi trắng, song mạch xích hơi trầm. Phương pháp chữa trị: Bổ thận. Bài thuốc: sừng hươu khô 15g, nhục thung dung 12g, hoài sơn 12g, xà sàng tử 8g, tiên linh kỳ 12g, rau cần (tươi) 30g, ngọc trúc 10g, ba kích 6g, đảng sâm 10g, cam thảo chích 8g. Đổ nước sắc thành 300ml, ngày chia 3 lần uống nóng.

Thể can khí uất kết:

Người phụ nữ lãnh dục thường buồn bực dễ cáu hoặc ngực sườn khó chịu, sắc lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng, mạch hơi huyền. Phương pháp chữa trị: Sơ can giải uất. Bài thuốc Tiêu dao tán gia giảm: sài hồ 10g, bạch thược 12g, đương quy 6g, phục linh 12g, thục địa 15g, uất kim 10g, bạch truật 8g, bạc hà 7g, tiên linh tỳ 12g, tiểu hồi lương 6g, cam thảo 8g. Đổ nước sắc thành 300ml, ngày chia 3 lần uống nóng.

Thể thận tinh hư tổn:

Biểu hiện bằng các triệu chứng như giảm sút ham muốn và khoái cảm tình dục, đầu choáng, mắt hoa, hay đổ mồ hôi trộm, tâm trạng phiền não, dễ cáu giận, lòng bàn tay và bàn chân nóng nhiều, lưng đau gối mỏi, dịch tiết âm đạo ít, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ. Bài thuốc: nhục thung dung 15g, kỷ tử 15g, thịt dê 100g, hành, gừng tươi, gia vị vừa đủ. Các vị thuốc cho vào túi vải, thịt dê rửa sạch thái ngang thớ to bằng bao diêm, ướp hành và gừng thái chỉ. Tất cả đem hầm thật nhừ rồi bỏ bã thuốc, chế thêm gia vị, ăn trong ngày.

Thể khí huyết khuy hư:

Biểu hiện bằng các triệu chứng như giảm sút ham muốn và khoái cảm tình dục, toàn thân mỏi mệt, sắc mặt và móng tay, móng chân nhợt nhạt, hay có cảm giác khó thở và hồi hộp trống ngực, chán ăn, kinh nguyệt không đều, sắc nhợt lượng ít, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài… Bài thuốc: đương quy 15g, kỷ tử 20g, hoàng tinh 15g, thịt dê 100g, gừng tươi và gia vị vừa đủ. Các vị thuốc cho vào túi vải đem hầm với thịt dê đã ướp gừng tươi đập giập, khi nhừ bỏ bã thuốc, chế đủ gia vị, ăn nóng trong ngày, 7 ngày là một liệu trình, có thể dùng liên tục 2-3 liệu trình.

Thể thận dương suy nhược:

Biểu hiện bằng các triệu chứng như giảm sút ham muốn tình dục, tay chân lạnh, sợ lạnh, lưng đau gối mỏi, kinh nguyệt lượng ít, sắc nhợt, ăn kém, đại tiện lỏng nát, mạch trầm vô lực... Bài thuốc: nhục thung dung 10g, kỷ tử 15g, ba kích 10g, đại hồi 5g, thịt chó 100g. Các vị thuốc cho vào túi vải đem hầm với thịt chó cho thật nhừ rồi bỏ bã thuốc, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.

Canh thịt dê nhục thung dung .

Liệu pháp ẩm thực

Cháo thịt dê thung dung: nhục thung dung 10-15g, thịt dê nạc 200g, gạo tẻ 200g, một chút muối tinh, hành 2 cây, gừng tươi 3 lát. Rửa sạch nhục thung dung, thịt dê nạc thái nhỏ, dùng nồi đất sắc nhục thung dung lấy nước cốt, bỏ bã, cho thịt dê và gạo tẻ vào nồi cháo. Đợi sôi cho muối tinh, gừng tươi, hành nấu thành cháo loãng, mỗi ngày một thang, 5-7 ngày một liệu trình ( Chú ý: Không được dùng khi bị cảm sốt, đại tiện lỏng nhão).

Rượu bổ: đương quy 10g, nhục thung dung 15g, đậu đen 30g, tiên linh tỳ 15g, thục địa 20g, đường phèn 3 lạng, rượu trắng 750ml. Ngâm các vị trên vào rượu, sau 7 ngày là dùng được, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 15-20ml.

Liệu pháp đắp rốn

Hồ tiêu trắng 2g, tiểu hồi hương 3g, lưu hoàng 3g, một nắm xôi. Giã hồ tiêu, tiểu hồi hương, lưu hoàng thành bột. Giã với xôi nhão như bùn, nặn thành bánh đắp vào rốn, 1 giờ sau lấy ra, mỗi ngày một lần, dùng liều 7 ngày một liệu trình.

Liệu pháp đai thuốc

Dùng tiên linh tỳ 20g, xà sàng tử 20g, hồ lô ba 12g, quế chi 15g, đương quy 10g, tất cả xay thành bột làm thành đai thuốc quấn quanh lưng và bụng dưới, 5-7 ngày thay thuốc 1 lần.

Liệu pháp xông rửa

- Lộc hàm thảo 30g, tiên linh tỳ 30g, xuyên tiêu 10g, đảng sâm 15g, dùng vải bọc, sắc đun 40 phút, xông rửa ngoài âm hộ, mỗi ngày 1-2 lần, mỗi lần 15-20 phút, 7 ngày là một liệu trình.

- Hoàng kỳ 20g, ngô thù du 6g, xà sàng tử 15g, cam thảo dùng túi bọc lại sắc đun 40 phút, xông rửa âm đạo, mỗi ngày 1-2 lần, mỗi lần 15-20 phút, 7 ngày là một liệu trình.

BS. Hoàng Thuần

Nov 8, 2012

Ðông y trị liệu chứng âm lãnh ở nam giới

Âm lãnh là một chứng bệnh không hiếm gặp ở cả hai giới, biểu hiện bằng tình trạng bộ phận sinh dục có cảm giác lạnh lẽo, kèm theo bụng dưới lạnh đau, suy giảm ham muốn tình dục, nam giới thường bị liệt dương ở các mức độ nặng nhẹ khác nhau. Theo Đông y, nguyên nhân chủ yếu của chứng bệnh này là do thận dương hư nhược, hàn tà ngưng trệ ở can mạch hoặc thấp nhiệt lưu trú ở can kinh gây nên.

Để trị liệu chứng bệnh này, nguyên tắc cơ bản là phải "biện chứng luận trị" nghĩa là căn cứ vào chứng trạng cụ thể, tiến hành phân thể bệnh rồi lựa chọn các bài thuốc, vị thuốc cho phù hợp. Ví như: với thể Thận dương hư nhược (còn gọi là thận dương bất túc) thì phải ôn thận tráng dương, thường dùng bài thuốc Phù mệnh sinh hỏa đan gia giảm gồm các vị thuốc như nhung hươu, ba kích, phụ tử chế, nhục quế, nhục thung dung, đỗ trọng, thục địa, sơn thù du, ngũ vị tử, nhân sâm, hoàng kỳ, bạch truật; với thể Hàn ngưng can mạch phải bổ thận noãn can, ôn kinh tán hàn, thường dùng bài thuốc Noãn can tiễn phối hợp với bài Tiêu quế thang gồm các vị thuốc như nhục quế, xuyên tiêu, ngô thù du, tiểu hồi hương, trầm hương, ô dược, thanh bì, sài hồ; với thể Can kinh thấp nhiệt phải thanh nhiệt lợi thấp, thường dùng bài thuốc Long đởm tả can thang gồm các vị thuốc như long đởm thảo, chi tử, hoàng cầm, sài hồ, xa tiền tử, mộc thông, trạch tả, đương quy, sinh địa.

Ngoài ra, có thể sử dụng các đông dược thành phẩm như Kim quỹ thận khí hoàn (mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên), Hữu quy phương (mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên) và các bài thuốc kinh nghiệm dân gian như: (1) Can khương 30g, mẫu lệ 30g, hai thứ sấy khô tán thành bột rồi trộn với rượu trắng đã hâm nóng thành dạng hồ nước rồi thoa vào bộ hạ; (2) Tiểu hồi hương 30g, đại hồi hương 30g, xuyên tiêu 15g, ba thứ sấy khô tán bột, trộn với hành củ lượng vừa đủ đã giã nát và sao nóng, gói vào khăn mỏng rồi chườm vào bụng dưới và hạ bộ; (3) Xuyên tiêu và ngải diệp lượng bằng nhau, đem sắc rồi xông và ngâm rửa hạ bộ kết hợp với dùng phong phòng đốt cháy thành than, tán bột, xoa vào dương vật hằng đêm trước khi đi ngủ.

Về xoa bóp, trước hết, dùng bàn tay hoặc ba ngón trỏ, giữa và nhẫn khép lại xát bụng dưới theo đường trục giữa từ trên xuống dưới và ngược lại mỗi phút 120 lần. Tiếp đó, dùng hai gốc bàn tay xát dọc hai bên thăn cột sống thắt lưng, mỗi phút 120 đến 160 lần. Cuối cùng, dùng một bàn tay xát dọc xương cùng cụt với tốc độ 120 lần trong 1 phút. Quy trình này tiến hành mỗi ngày 2 lần vào buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng khi thức dậy.

Về ăn uống, nên trọng dụng các đồ ăn thức uống có công dụng bổ thận trợ dương như thịt dê, thịt chó, thịt chim sẻ, trứng chim cút, bồ dục heo, ngẩu pín, đuôi bò, tinh hoàn động vât, tôm, hải mã, rau hẹ, long nhãn, hạt tiêu, tiểu hồi, đông trùng hạ thảo, tắc kè...

Để phòng bệnh, trong sinh hoạt hằng ngày hết sức tránh bị cảm lạnh, nhà ở phải ấm áp và thoáng khí, hạn chế ăn thức ăn tanh lạnh, trong sinh hoạt tình dục tránh bị nhiễm lạnh, tuyệt đối không tắm lạnh ngay sau khi động phòng, nên vệ sinh bộ phận sinh dục bằng nước ấm.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Nov 7, 2012

Những minh chứng khoa học về lợi ích của tình dục

Các nhà khoa học đã có nhiều nghiên cứu để đưa ra những bằng chứng thuyết phục về lợi ích của hoạt động tình dục và cùng nhất trí rằng tình dục là một phần của sự sống, một chức năng sinh học đặc biệt với "cho và nhận" đồng thời cũng là một nhu cầu không thể thiếu của con người.

Tình dục giúp kéo dài tuổi xuân

Kết quả nghiên cứu tại Đại học Queens ở Belfast công bố trên British Medical Journal cho hay, những ai luôn luôn tận hưởng khoái lạc tình dục đều sống lâu gấp đôi so với người lơ là với hành động sinh lý này.

Mỗi khi có cực khoái thì hormon DHEA (Dehydroepiandrosteron) từ tuyến thượng thận sản xuất ra có khả năng tăng miễn dịch, tu bổ tế bào bị tổn thương, kéo dài tuổi thanh xuân, tăng nhận thức, tăng dục năng, tiêu hủy chất béo, giảm trầm cảm.

Bác sĩ thần kinh David Weeks, Bệnh viện Royal Edinburgh, Scotland, còn tiết lộ thêm rằng, những người quan hệ tình dục 4 lần/tuần trông trẻ hơn tuổi thực tới 10 năm.

Giảm trầm cảm, căng thẳng

Tuy nhiên, trường thọ mà cô đơn, trầm buồn thì cũng chưa phải đã có chất lượng sống cho nên tiến sĩ Mark Stibich, Đại học California ở San Diego còn chứng minh rằng tình dục làm tăng sản xuất nhiều loại hormon, tăng sự gắn bó giữa đôi bạn tình, giảm trầm cảm.

Bác sĩ Gordon Gallup, Đại học New York ở Albany thấy rằng, phụ nữ yêu đương với nam giới có xuất tinh đều yêu đời hơn. Đó là nhờ chất hưng phấn prostaglandin của tinh dịch thấm qua nội mạc tử cung, vào máu, kích thích thần kinh.

Giảm nguy cơ bệnh tim mạch

Nghiên cứu được công bố trên American Journal of Cardiology cho hay, nam có quan hệ tình dục ít nhất 2 lần/tuần sẽ ít bị bệnh tim hơn là những người nam khác chỉ "yêu đương" thưa thớt mỗi tháng có một lần.

Tăng miễn dịch với cúm, cảm lạnh

Các giáo sư Carl J. Charnetski và Francis X. Brennan, Jr., Đại học Wilkes-Barre, Pennsylvania cho hay, nam nữ làm "chuyện ấy" một hoặc hai lần/tuần có lượng IgA cao hơn nhóm "chay tịnh" hoặc chỉ làm "chuyện ấy" một lần.

Tuy nhiên, hai nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng, nếu hoạt động phòng the trên 3 lần/tuần thì IgA không những không cao mà còn thấp hơn là khi chỉ làm "chuyện ấy" một hoặc hai lần. Paul Pearsall, Ph.D, tác giả sách Superimmunity (Siêu miễn dịch) cũng đồng ý là quan hệ tình dục có khả năng tăng cường tính miễn dịch của cơ thể qua một loại hóa chất nào đó.

Giảm đau xương nhức khớp, nhức đầu

Theo Beverly Whipple, Chủ tịch Hội những nhà giáo dục về tình dục, Mỹ cho rằng các hormon sản xuất khi hưng phấn hoặc khi có cực khoái có thể tăng ngưỡng chịu đựng (threshold) với cảm giác đau vì hormon oxytocin tăng cao gấp 3 lần so với bình thường. Hormon này lại kích thích tăng tiết chất giảm đau tự nhiên endorphin, một loại morphin tự nhiên trong cơ thể, nhờ đó các cơn đau giảm rất nhiều.     (Còn nữa)

BS. Đào Xuân Dũng

Nov 6, 2012

Vì sao nên “yêu” thường xuyên?

Cho đến nay, dù xã hội ngày càng phát triển và hiện đại hơn, thì những tranh cãi về tầm quan trọng và sự cần thiết của tình dục đối với cuộc sống của con người giữa hai phe "tiết chế" và "cởi mở" vẫn chưa ngã ngũ. Thế nhưng, đằng sau những lợi ích của tình dục cho sức khỏe thì người ta vẫn phải thừa nhận xu hướng "cởi mở" đang thắng thế.

Quan niệm không nên "yêu" trước những trận thi đấu lớn, trước khi ký những bản hợp đồng hay thực hiện các vụ việc quan trọng… vẫn được nhiều người theo phe "tiết chế" áp dụng. Trong quan niệm của họ, tình dục đơn giản chỉ là bản năng của con người nhằm duy trì nòi giống. Khoái cảm mà nó đem lại còn bị xem là sự xấu xa. Ngoài duy trì nòi giống, tình dục chỉ đem lại phiền toái cho sức khỏe, làm tổn hao năng lượng, nhất là cho phái mạnh; đem lại những điều không may và phiền toái.

Thế nhưng, khoa học đã chứng minh, ái ân không chỉ đem lại sự thỏa mãn về mặt thể xác hay chỉ để duy trì nòi giống, mà các lợi ích của nó đối với sức khỏe thể chất và tinh thần là vô cùng lớn. Những người thường xuyên "yêu" với tần suất 2 - 3 lần/tuần không chỉ khỏe mạnh hơn, lạc quan yêu đời hơn mà còn dễ dàng vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Và trên hết phải kể đến những lợi ích sau:

Sinh con khỏe mạnh:

Theo nhiều nghiên cứu ở Hoa Kỳ, các cặp vợ chồng có đời sống tình dục hài hòa thường sẽ sinh ra một đứa trẻ khỏe mạnh. Cuộc sống gia đình hạnh phúc là một nhân tố quan trọng quyết định tính cách của trẻ nhỏ. Nếu các em được bố mẹ yêu thương, chăm sóc tốt thì nguy cơ phạm tội hay bị bệnh tâm lý giảm đáng kể.

Giảm nguy cơ bệnh tim: Bởi khi "yêu", nhịp tim tăng nhanh dưới tác động của sự phân tán cortisol từ các tuyến thượng thận. Hormon này tác động trên nhiều bộ phận, nó làm tăng huyết áp và co giãn động mạch. Cùng lúc đó, tim trở lại nhịp độ bình thường bởi sự điều tiết của testosteron sẽ làm cơ bắp khỏe hơn, tim và động mạch dẻo dai hơn. Nam giới "yêu" đều đặn sẽ giảm 50% nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ.

Giảm cân và tăng cường sức mạnh cho xương, cơ: Một cuộc "giao ban" sẽ làm bạn tiêu tốn khoảng 200 kcalo, tương đương với chạy 15 phút trên máy chạy bộ hoặc một séc tennis. Nếu đạt được "đỉnh", bạn còn tiêu tốn thêm khoảng một nửa số kcalo nữa. Khi "yêu", các cơ bắp, đặc biệt là cổ, ngực, lưng, hông, tay, chân sẽ hoạt động tối đa. Quan hệ tình dục cũng làm tăng sản xuất testosteron, dẫn đến xương và cơ bắp mạnh mẽ hơn.

Giảm trầm cảm và mất ngủ: Prostoglandin, một hormon được tìm thấy chỉ có trong tinh dịch có thể được hấp thụ ở đường sinh dục nữ sẽ giúp phụ nữ bớt lo âu, buồn phiền, từ đó làm giảm nguy cơ bị trầm cảm. "Yêu" còn giải phóng cortisol giúp kích thích sự phòng chống stress, cải thiện tính khí và làm giảm sự lo âu, tăng cường khả năng chống đỡ và vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Các hormon tiết ra, cộng với sự hoạt động mạnh của các cơ bắp khi ân ái sẽ giúp con người ngủ ngon hơn.

Giảm đau: Khi đạt cực khoái, lượng hormon oxytocin tăng gấp 5 lần bình thường. Điều này sẽ giải phóng endorphin - một chất làm giảm đau, từ đau đầu đến viêm, thậm chí đau nửa đầu. Với phụ nữ, chất endorphin này lại rất hữu ích bởi nó có thể giúp chị em giảm đau đầu và chống viêm hay tổn thương ở cổ tử cung.

Chống lão hóa: Khi đạt được "đỉnh" lượng endorphin và các hormon tăng trưởng lưu chuyển trong cơ thể, làm lành những tổn thương gây ra từ ánh nắng mặt trời, rượu và cortisol (chất phá hủy các collagen, hình thành nếp nhăn). Không những thế, khi bạn đổ mồ hôi, các chất dầu tự nhiên như linoleic axit - một chất làm ẩm còn tìm thấy trong hoa rum và dầu oliu sẽ được tiết ra, bôi trơn các tế bào và cung cấp nước cho da của bạn.

Ít bị cảm lạnh: Khi hoạt động tình dục, cơ thể sẽ tiết ra immunoglobulin A hay IgA kháng thể, giúp bảo vệ cơ thể khỏi các tác động do việc thay đổi thời tiết hay nhiễm khuẩn.

Kéo dài khả năng tình dục: Cũng giống như việc nam giới tập thể dục mỗi ngày để giữ cơ thể cân đối và khỏe mạnh, "cậu bé" cũng cần được tập thể dục để có thể khỏe mạnh và đủ sức hoạt động lâu dài. Đàn ông không thường xuyên quan hệ hoặc thủ dâm có nguy cơ cao bị teo cơ quan sinh dục. Các quý ông nên để "cậu bé" của mình được luyện tập ít nhất 3 lần một tuần để có thể kéo dài khả năng tình dục cho những năm về sau.

Cải thiện chất lượng tinh trùng: Tăng cường tần suất quan hệ một cách thích hợp thì tinh trùng sẽ càng "tươi khỏe". Rất đơn giản, nếu tinh trùng phải đợi lâu trong tuyến tiền liệt mà chưa được xuất ra, chất lượng chắc chắn sẽ bị giảm.

Giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và khỏe cơ bàng quang: Khi ân ái, cơ vùng chậu hoạt động nhiều nhất với tần suất cao sẽ giúp cho vùng này dẻo dai, khỏe mạnh và săn chắc, từ đó giúp cơ bàng quang khỏe hơn, đồng nghĩa với việc bạn sẽ không bị mắc các bệnh do cơ bàng quang yếu như tiểu dắt, tiểu són khi về già. Việc xuất tinh thường xuyên, đặc biệt là ở nam giới ở độ tuổi 20 có thể giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với những người có quan hệ tình dục lành mạnh. Với những người quan hệ tình dục bừa bãi và không có biện pháp bảo vệ, nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 40% do họ dễ mắc các bệnh về đường tình dục hơn bình thường.

Quan hệ tình dục đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, nhưng cũng không nên lạm dụng nó, đặc biệt là nam giới. Dù "cậu nhỏ" có sự đàn hồi tuyệt vời, nhưng nếu các mô xốp thường xuyên bị căng - xẹp cũng khó mà trở về trạng thái ban đầu, nhất là khi tuổi ngày một cao. Cứ duy trì việc yêu đương mãnh liệt và dồi dào như tuổi đôi mươi, chẳng mấy chốc "cậu nhỏ" sẽ bị tổn thương vĩnh viễn. Động tác khi ái ân cũng không nên quá mạnh, cũng không nên thường xuyên thực hiện các tư thế đặc biệt vì có thể tổn thương mô cương cứng. Điều cần nhớ là khi quan hệ tình dục, cần bảo đảm an toàn cho cả mình và cả bạn tình.

BS. Bằng Linh

Nov 5, 2012

Không nên tùy tiện uống Aspirin để khỏe tim, ngừa ung thư

Hiện nay có khá nhiều người, đặc biệt là người cao tuổi, nghe nói aspirin có thể phòng ngừa các bệnh lý tim mạch nên tự ý dùng aspirin gọi là để bổ tim, khỏe tim mà không thông qua ý kiến bác sĩ. Dùng  như thế là việc không đúng. Gần đây, lại có thông tin cho rằng uống 1 liều nhỏ aspirin hàng ngày sẽ giúp giảm nguy cơ mắc nhiều loại ung thư vì có các bằng chứng khoa học đủ mạnh để khẳng định rằng những người ngoài 40 tuổi nên uống aspirin hàng ngày để bảo vệ mình. Sự thực có đúng như vậy không?

Những tác dụng chính của aspirin Trước hết xin nói về tác dụng của aspirin. Ngoài 3 tác dụng hạ sốt, chống viêm, giảm đau, aspirin còn có tác dụng thứ 4 là chống kết tập tiểu cầu (tức làm cho tiểu cầu không tụ hợp lại gây đông máu) do ức chế tổng hợp trong cơ thể thromboxane A2 và prostacyclin là hai chất cần cho sự đông máu, tức là aspirin chống lại sự đông máu hay còn gọi ngừa huyết khối. Chính tác dụng chống kết tập tiểu cầu làm cho việc sử dụng aspirin phải thận trọng (chống chỉ định trong các bệnh lý gây xuất huyết như bị sốt xuất huyết hay đối với phụ nữ có thai vào 3 tháng cuối vì nguy cơ băng huyết khi sinh). Nhưng cũng chính nhờ có tác dụng chống kết tập tiểu cầu mà aspirin trở thành thuốc rất quý, có thể dùng ngăn ngừa sự hình thành cục huyết khối gây nghẽn mạch dẫn đến nhiều bệnh lý tim mạch, trong đó có việc giúp máu không đóng cục gây nghẽn động mạch vành. Đã có nhiều công trình nghiên cứu áp dụng tính chất chống kết tập tiểu cầu của aspirin vào điều trị và đã có đề xuất chỉ định aspirin trong một số bệnh tim mạch như sau:

- Chống tái phát nhồi máu cơ tim với liều dùng aspirin 75 - 325mg mỗi ngày. Có thể kết hợp thêm dipyridamole (thuốc giãn mạch vành) hoặc streptokinase (thuốc làm tan huyết khối).

- Dự phòng các tai biến mạch máu não: aspirin chứng tỏ làm giảm nguy cơ đột quỵ (stroke) và các cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (trasient ischaemic attacks) đưa đến tai biến mạch máu não do huyết khối.

- Dự phòng tai biến huyết khối gây tắc mạch trong phẫu thuật đặt van tim nhân tạo hoặc làm cầu nối mạch vành: thường kết hợp aspirin với dipyridamole.

Uống aspirin kéo dài gây ảnh hưởng niêm mạc dạ dày.

Như vậy, aspirin đã được sử dụng trong lĩnh vực bệnh lý tim mạch nhưng chủ yếu là phòng ngừa và phải dùng trong thời gian dài. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và điều trị có cảnh cáo là không được tự ý sử dụng thuốc gọi là phòng ngừa tiên phát (primary prevention, tức là ngừa trước khi có bệnh tim mạch) đối với những người không có dấu hiệu rõ ràng về bệnh tim mạch. Khuyến cáo mới đây của Hội Tim mạch Hoa Kỳ là không khuyến khích các bác sĩ kê đơn aspirin thoải mái để phòng ngừa tiên phát cho những người thật sự không có bệnh tim mạch. Đối với người chưa có nguy cơ thật sự về bệnh tim mạch thì việc dùng aspirin dài hạn để phòng ngừa là có hại hơn là có lợi, bởi vì dễ bị các tác dụng phụ của aspirin, trong đó có nguy cơ bị xuất huyết. Đối với người đã bị nhồi máu cơ tim hay đột quỵ do huyết khối, có nguy cơ tái phát thì việc dùng aspirin dài hạn, mặc dù là dùng liều thấp 75 - 81mg/ngày nhưng phải dùng liên tục trong nhiều năm, vẫn phải cần có sự theo dõi của bác sĩ điều trị. Tác dụng có hại của aspirin bao gồm chứng khó tiêu, buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy, loét dạ dày tá tràng và xuất huyết tiêu hóa. Người bị hen suyễn nên thận trọng, dùng tùy tiện aspirin có thể làm khởi phát cơn hen và làm cơn hen trở nên trầm trọng. Như vậy hoàn toàn không nên tự ý uống aspirin gọi là để bổ tim, khỏe tim, nếu nghi ngờ có nguy cơ bị bệnh lý tim mạch nên đi khám và hỏi ý kiến bác sĩ.

Một số lưu ý khi dùng aspirin

Khi đã được bác sĩ chỉ định dùng aspirin để ngừa bệnh tim mạch cũng cần lưu ý về cách uống thuốc loại này. Khi sử dụng aspirin người ta thường lưu ý nhất tác dụng phụ gây tổn hại niêm mạc dạ dày của nó và có khuyến cáo nên uống vào lúc bụng no, tức là uống ngay sau khi ăn để nhờ thức ăn làm chất độn ngăn không cho aspirin với bản chất acid (aspirin chính là acid acetylsalicylic) tiếp xúc trực tiếp gây hại niêm mạc dạ dày. Có một số người chuộng cách uống vào buổi tối trước khi ngủ nhưng vào thời điểm này e rằng không tiện vì bụng bắt đầu trống. Cần chọn thời điểm nhất định như sau: bữa ăn sáng hoặc trưa để uống thuốc để thành thói quen không bị quên. Cần đặc biệt lưu ý, hiện nay có biệt dược Aspirin pH8 được bao tan ở ruột có thể uống vào lúc bụng trống nhưng lại chứa liều cao 500mg hoạt chất trong mỗi viên, và Aspirin pH8 do liều cao chỉ dùng để giảm đau, hạ nhiệt (dùng trong trường hợp bị cảm sốt), chống viêm (dùng trong các bệnh về cơ xương khớp) chứ không được dùng trong bệnh lý tim mạch (ngừa đau thắt ngực, ngừa nhồi máu cơ tim, đột qụy tái phát). Vì vậy, không nên chia nhỏ viên thuốc Aspirin pH8 để dùng liều thấp hơn (như chia làm 5 để dùng liều 100mg) để dùng phòng ngừa bệnh lý tim mạch. Chia nhỏ hoặc nghiền viên thuốc như thế là làm hỏng hoàn toàn dạng thuốc bao tan ở ruột và thường là phân liều không chính xác. Nên dùng loại thuốc chứa liều thấp trong trường hợp cần dùng liều thấp, như dùng gói dạng bột hòa tan aspirin (chứa 75mg hoặc chứa 81mg aspirin) và nhớ uống vào lúc bụng no như đã nói ở trên.

Còn về tác dụng ngừa ung thư của aspirin thì như thế nào? Cách đây nhiều năm đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu xem aspirin và cả nhóm thuốc gọi là thuốc chống viêm không steroid (viết tắt NSAID) có tác dụng ngừa ung thư đại trực tràng (UTĐTT) hay không. Bởi vì aspirin và NSAID nói chung có tác dụng ức chế enzyme có tên cyclo – oxygenase 2 (viết tắt COX-2), do đó ức chế sự tạo thành chất sinh học prostaglandin trong cơ thể. Prostaglandin do COX-2 kích thích tạo ra có tác dụng gây viêm (vì thế aspirin và NSAID chống viêm tốt) và trong một số trường hợp nào đó có thể kích thích sự phân chia tế bào ác tính gây UTĐTT, nhất là người bệnh đã mắc sẵn polype ruột già (aspirin và NSAID vì thế được hướng đến nghiên cứu ngừa UTĐTT). Tuy nhiên, các nghiên cứu cho đến nay chia ra làm 2 loại: có nghiên cứu cho thấy aspirin và NSAID không có tính bảo vệ tức không làm giảm tỷ lệ mắc UTĐTT, có một số nghiên cứu thấy có bảo vệ nhưng tỷ lệ ngừa UTĐTT chỉ vào khoảng 30 - 60%. Gần đây, vấn đề dùng aspirin ngừa UTĐTT lại nổi rộ lên vì có bài báo nghiên cứu đăng trong tạp chí y khoa The Lancet. Bài báo này tường trình nghiên cứu với 8 cuộc khảo sát trên 25.000 bệnh nhân, các nhà nghiên cứu nhận thấy tỉ lệ tử vong do ung thư ở những người uống aspirin liều thấp 75mg/ngày giảm 21% trong suốt quá trình nghiên cứu và 34% sau 5 năm. Như vậy, tỷ lệ ngừa cũng thuộc loại thấp, chỉ khoảng 21 - 34% và phải uống aspirin đều đặn hằng ngày ít nhất là 5 năm. Nên lưu ý, bất cứ nghiên cứu nào cũng đều đề cập đến nguy cơ dùng aspirin dài hạn tuy với liều thấp đưa đến viêm loét đường tiêu hóa, đặc biệt là xuyết huyết dạ dày. Bài báo đăng trên tạp chí The Lancet thật ra chỉ tiếp thêm việc tranh luận về việc có nên uống aspirin ngừa UTĐTT hay không bởi vì có khi "lợi bất cập hại", chính aspirin làm tăng nguy cơ chảy máu dạ dày ở 1/1.000 bệnh nhân trên toàn thế giới mỗi năm. Chứ cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn chính thức về việc dùng aspirin ngừa UTĐTT, tất cả vẫn trong vòng nghiên cứu. Chúng ta hãy đợi khi nào trên bao bì hoặc bản hướng dẫn sử dụng thuốc aspirin có ghi: "có thể dùng aspirin ngừa UTĐTT", khi đó hãy dùng để ngừa. Còn hiện nay, xin đừng dựa vào thông tin không đáng tin cậy, dùng thuốc bừa bãi sẽ chịu cảnh "tiền mất tật mang".

PGS.TS. NGUYỄN HỮU ĐỨC

Nov 4, 2012

Lưu ý khi dùng ephedrin chữa ngạt mũi

Ephedrin là một trong những thuốc rất quen thuộc với người sử dụng, là thành phần chính trong thuốc sulfarin (thuốc dùng để nhỏ mũi). Ngoài ra thuốc còn có các dạng, tiêm, khí dung, siro… Đây là thuốc được dùng để điều trị triệu chứng sung huyết mũi (thường đi kèm với cảm lạnh), viêm mũi dị ứng, viêm mũi, viêm xoang; Đề phòng hay điều trị hạ huyết áp trong gây tê tuỷ sống; Đề phòng co thắt phế quản trong hen (nhưng đây không phải là thuốc chọn đầu tiên).

Về cơ chế tác dụng người ta thấy, với liều điều trị, ephedrin làm tăng huyết áp do tăng lưu lượng tim và co mạch ngoại vi (vì thế không dùng thuốc này cho người bệnh tăng huyết áp và không dùng cùng với các thuốc chống tăng huyết áp). Ephedrin còn gây giãn phế quản, giảm trương lực và nhu động ruột, làm giãn cơ thành bàng quang, trong khi làm co cơ thắt cổ bàng quang nhưng lại làm giãn cơ mu bàng quang và thường làm giảm co bóp tử cung. Thuốc kích thích trung tâm hô hấp, làm giãn đồng tử nhưng không ảnh hưởng lên phản xạ ánh sáng. Và sau khi dùng ephedrin một thời gian có thể có hiện tượng quen thuốc, đòi hỏi người sử dụng phải tăng liều.

Cuốn mũi bị phù nề (hình trái) và cuốn mũi bình thường (hình phải).

Không được dùng thuốc này trong các trường hợp: Người bệnh quá mẫn với ephedrin, người bệnh đang điều trị bằng thuốc ức chế monoaminoxydase, người bệnh bị cường giáp và không điều chỉnh được, người bệnh hạ kali huyết chưa điều trị được.

Khi dùng thuốc này người bệnh có thể thấy bí tiểu hoặc tiểu khó. Và ngay ở liều điều trị thuốc cũng có thể gây ra cho người bệnh cảm giác đánh trống ngực. Ở những người bệnh nhạy cảm với thuốc thì với liều thấp cũng có thể gây mất ngủ, lo lắng, thậm chí là lú lẫn, đặc biệt khi dùng thuốc đồng thời với caphein. Một số ít người bệnh thấy chóng mặt, nhức đầu, vã mồ hôi hay đau bụng, buồn nôn, nôn... Thuốc có thể gây an thần nghịch thường ở trẻ em và việc tự dùng thuốc quá nhiều có thể dẫn đến loạn tâm thần.

Vì vậy, khi dùng thuốc này cần chú ý: không nên dùng ephedrin sau 4 giờ chiều vì thuốc có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương gây khó ngủ hoặc mất ngủ; Không dùng quá 7 ngày liên tục; Không nên dùng cho trẻ em dưới 3 tuổi; Thận trọng khi chỉ định cho người bệnh suy tim, đau thắt ngực, đái tháo đường, cường giáp và người bệnh đang dùng digitalis (thuốc trợ tim), người bệnh cao tuổi.

Ephedrin có thể làm tăng đái khó ở người bệnh có phì đại tuyến tiền liệt. Dùng ephedrin nhỏ mũi thường xuyên hay kéo dài có thể dẫn đến hiện tượng sung huyết mũi hồi ứng. Khi sử dụng, liều ephedrin dùng dưới dạng khí dung hay thuốc nhỏ mũi vẫn có thể gây tác dụng toàn thân. Dùng kéo dài mặc dù không gây tác dụng tích luỹ thuốc nhưng có thể gây quen thuốc và phụ thuộc vào thuốc, nghiện thuốc. Không nên dùng thuốc này trong 3 tháng đầu của thai kỳ và người đang cho con bú.

DS. Hoàng Thu Thủy

Nov 3, 2012

Tổn thương da do tác dụng phụ của thuốc

Tất cả các loại thuốc chữa bệnh đều có thể gây những tác dụng phụ làm tổn hại một hoặc nhiều cơ quan của cơ thể. Có thể gặp ở người này hoặc người khác với nhiều mức độ khác nhau. Tổn thương da là biểu hiện của dị ứng thuốc mà người bệnh dễ dàng nhận biết.

Ban đỏ (Exanthems): là dạng ban sẩn hoặc ban dạng sởi, nhỏ như đầu đinh ghim ở thân mình và có thể liên kết lại với nhau tạo thành mảng, người bệnh thường ngứa, thời gian xuất hiện sau dùng thuốc thường khoảng một tuần và tồn tại đến một vài tuần. Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: ampicillin, amoxycillin, cotrimoxazole, carbamazepine, cefaclor, những thuốc bôi ngoài da, những thuốc có khả năng khuếch tán trong môi trường (các mỡ kháng sinh, chống viêm, bảo vệ da, tiếp xúc trực tiếp với thuốc trong công nghệ sản xuất thuốc, khí dung kháng sinh...).

Viêm da bong vảy là dạng ít gặp với biểu hiện đỏ da bong vảy và ngứa toàn thân. Bệnh có thể tiến triển nặng nề và có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh. Dạng này thường xuất hiện sau dùng thuốc khoảng 1 tuần và tồn tại trong 3 – 4 tuần. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: allopurinol, thuốc chống sốt rét, giảm đau, hạ nhiệt, carbamazepine, penicillin, streptomycin, chloramphenicol, tetracyclin và sulfonamide.

Mày đay thường là biểu hiện lâm sàng nhẹ và ban đầu của phần lớn các trường hợp dị ứng thuốc. Các loại thuốc đều có thể gây mày đay, hay gặp hơn là kháng sinh, vaccin, huyết thanh, thuốc chống viêm giảm đau, hạ sốt... Sau khi dùng thuốc (nhanh từ 5-10 phút, chậm có thể vài ngày), người bệnh cảm thấy nóng bừng, ngứa, trên da nổi ban cùng sẩn phù, có thể kết hợp với phù mạch, phù nề mi mắt, môi. Trường hợp nặng có thể có khó thở, đau bụng, đau khớp, chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, mệt mỏi, sốt cao...

Tổn thương da do thuốc.

Mày đay cấp thường biểu hiện tăng sẩn phù, mất đi nhanh và xuất hiện lại cũng nhanh, diễn biến trong thời gian dưới 3 tuần. Mày đay diễn biến hằng ngày, kéo dài hơn 3 tuần là đã chuyển thành mạn tính.

Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: kháng sinh, đặc biệt là penicillin, thuốc khác: captopril và các thuốc ức chế men chuyển khác, thuốc chống viêm giảm đau không steroid (NSAIDs) bao gồm cả aspirin và các thuốc quinine.

Phù Quincke là tình trạng phù cục bộ, có thể do kháng sinh, vaccin, huyết thanh, các thuốc chống viêm không steroid... Phù thường xuất hiện nhanh sau khi dùng thuốc ở những vùng da mỏng, môi, cổ, quanh mắt, bụng, các chi, bộ phận sinh dục... Kích thước phù Quincke thường to, có khi bằng bàn tay, nếu ở gần mắt làm cho mắt híp lại, ở môi làm môi sưng to, biến dạng. Màu da vùng phù bình thường hoặc hơi hồng nhạt, đôi khi phối hợp với mày đay. Trường hợp phù Quincke ở họng, thanh quản, người bệnh có thể bị nghẹt thở; ở ruột, dạ dày gây đau bụng; ở não gây đau đầu...

Da nhạy cảm ánh sáng: Bình thường da không nhạy cảm với ánh sáng. Khi dùng một số loại thuốc thường là các loại như: ức chế men chuyển, NSAIDs, quinolone, nalidixic acid, phenothiazine, tetracycline, griseofulvin, amiodarone, sulfonamide và thiazide thì da trở nên tăng nhạy cảm với ánh sáng và bị tổn thương như: đỏ da giống bị phỏng, sạm da, đen da hoặc mất sắc tố da… Vị trí ở các vùng da hở như: mặt, cổ, mu bàn tay, mu bàn chân. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào liều thuốc sử dụng và thời gian tiếp xúc với ánh nắng.

Hồng ban đa dạng: Bệnh bắt đầu sau một vài ngày dùng thuốc với những biểu hiện: sốt nhẹ, mệt mỏi, đau khớp, sưng hạch, có cảm giác nóng bỏng toàn thân. Tổn thương là các hồng ban hình bia bắn điển hình có ba vòng tròn đồng tâm: ngoài cùng là vòng ban đỏ, tiếp trong là sẩn đỏ phù nề, ở giữa là mụn nước nhỏ hoặc vỡ, trợt, hoại tử. Bệnh có thể kèm theo tổn thương niêm mạc các hốc tự nhiên, tổn thương nội tạng (tim, gan, thận...), tái phát nhiều đợt; trường hợp nặng có thể gây tử vong.

Nguyên nhân do thuốc gây hồng ban đa dạng chỉ chiếm khoảng 10%, các thuốc thường gây hồng ban đa dạng là: ức chế men chuyển, allopurinol, carbamazepine, phenytoin, NSAIDs, penicillins, sulfonamide và tetracyclin.

Viêm mao mạch là tình trạng viêm hoại tử các mao mạch ngoài da do các thuốc như: ức chế men chuyển, NSAIDs, allopurinol, penicillins, sulfonamides và thiazides lợi tiểu. Biểu hiện ngoài da là các ban xuất huyết sờ thấy được trên mặt da. Ngoài ra, thuốc còn có thể gây viêm mạch nội tạng và gây nguy hiểm hơn cho người bệnh.

Ban dạng lichen: Gọi tên này bởi vì tổn thương ngoài da giống lichen phẳng: là các sẩn màu hơi tím, phẳng, trên đó có các rãnh, khía... tổn thương có thể liên kết thành mảng lớn. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: thuốc chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chống sốt rét, furosemide, thiazides, chlorpropamide, methyldopa, phenothiazine và quinidine.

Hồng ban cố định nhiễm sắc là dạng dị ứng thuốc biểu hiện ở vị trí cố định trên da, thường là các vị trí liên kết da - niêm mạc. Tổn thương là các dát sẫm màu ranh giới rất rõ với da lành, số lượng thường chỉ 1 hoặc vài tổn thương. Xuất hiện lại tại đúng vị trí lần trước, sau khi uống thuốc khoảng 30 phút đến 8 giờ kèm theo cảm giác nóng rát hoặc châm chích tại vị trí tổn thương. Các thuốc thường gây dị ứng loại này là: tetracycline, sulfonamide, NSAIDs, paracetamol, phenolphthalein và barbiturat.

BS. Lê Đức Thọ

 
Powered by Blogger